NHỮNG
CẤM KỴ KHI GIAO HỢP
Hoàng Đế hỏi Tố Nữ: Tinh lực của nam
nhân biến đổi bất thường, có khi yếu khiến dương vật không dương lên,
có khi tinh dịch yếu đến không xuất ra. Nàng có biết phép trị liệu
nào không?
Tố Nữ
đáp:”Sự kiện này cũng thường thôi, biết bao nhiêu nam nhân đắm say tửu
sắc đến sanh tật bệnh. Muốn trẻ mãi không già không gì bằng đừng mê
gái dẹp. Đây là một điều rất quan trọng mà nhân sinh mắc phải vẫn
không chừa. Nếu vì sắc mà trị bệnh thì phải dùng dược liệu trị
ngay. Tuy nhiên trước khi bắt đầu giao hợp phải tránh những cấm kỵ, vi
phạm những cấm ky thì dùng dược kiệu cũng vô ích mà
thôi.”
GHI
CHÚ:
1.
Những cấm kỵ đó là
gì?
Sách Tố Nữ có ghi lại
sáu điều cấm kỵ như sau:
Không
được giao hợp vào ngày đầu tháng âm lịch (thượng ngươn) giữa tháng
(lúc trăng tròn) và cuối tháng. Phạm vào cấm kỵ này con cái sinh ra
sẽ bị thương tổn, còn mình thì “không còn giương lên được”. Trong mình
lúc đó bị “dục hỏa thiêu trung”, nghĩa là hỏa thị dục thiêu đốt tâm
can của mình nên nước tiểu phát ra có màu đỏ hay vàng lườm. Nhiều khi
mang thêm bệnh di tinh. Tuổi thọ bị giảm.
Khi có
sấm sét, mưa gió, đất thảm trời sầu, động đất, tránh không được giao
hợp. Giao hợp thì con cái sinh ra sẽ bị câm điếc, mù loà hay tinh thần
suy nhược. Về phương diện tâm lý thì đứa nhỏ sẽ có một tinh thần suy
nhược, đa sầu, đa cảm, luôn luôn ủ dột.
Không nên
giao hợp khi đã ăn quá no hay khi đương cơn say. Phạm cấm kỵ này nội
tạng bị tổn thương, nước tiểu màu đỏ, mặt tái xanh, lưng đau mỏi,
mình mẩy phù thủng, tuổi thọ bị rút xuống rất nhanh.
Không nên
giao hợp khi vừa mới đi tiểu xong. Lúc này cơ thể chưa trở về trạng
thái bình thường, chưa sẵn sàng để mở ra hoạt động rất phức tạp là
giao hoan. Phạm điều cấm kỵ này thì về sau ăn uống sẽ mất ngon, bụng
phình to, tâm thần luôn luôn phiền muộn, nhiều khi lơ đãng như người mất
trí.
Tránh
giao hợp khi người đã mất sức vì mệt nhọc như đi bộ, lao động nặng,
mệt mỏi chưa phục hồi, trong minh bãi hoải. Phạm cấm kỵ này thì sẽ
bị mắc bệnh suyễn, miệng khô, đường tiêu hoá bị trở ngại, các cơ quan
bài tiết gặp những giao động.
Không nên
giao hợp liền khi đương nói chuyện với nữ nhân mà dương cụ nổi lên. Vi
phạm điều này thì dương cụ bị thương tổn, nội trạng bị suy, lổ tai
không còn thính, tinh thần bất an, ho suyễn. Nhắc lại, sáu điều cấm
kỵ này quan trọng đến nổi nếu phạm phải thì sinh bệnh, chỉ có thần
dược mới chửa khỏi mà thôi.
2.
Sách Tố Nữ ghi lại
cuộc đối thoại sau đây:
Hoàng Đế hỏi Cao Dương
Phụ: “Ta nghe Tố Nữ nói nam nhân hay bị cửu lao và thất thương, nữ nhân
hay bị hồng, bạch đái và tuyệt sinh (không thể sinh con). Thử hỏi vì
sao mà sinh ra những chứng bệnh này?”
Cao Dương Phụ nói: “Nam
nhân thường bị các tệ nạn ngủ lao, luc cực và thất thương. Các bệnh
này sinh ra điều có nguyên nhân.”
Hoàng Đế nói: “Ta muốn
nghe nói về thất thương, xin nàng trình bày cho
rỏ.”
Cao Dương Phụ
nói:
Thất thương
là:
- Âm hản (mồ hôi
trộm)
- Âm suy (yếu sinh lý)
- Tâm thanh (tinh dịch
đổi màu không trắng)
- Tinh thiểu (tinh dịch
ít và lỏng bỏng)
- Âm hạ ướt
- Tiểu ít
- Không cương cứng
Làm sao trị những
chứng bệnh trên?
Chỉ có cách dùng phục
linh. Phục linh là thần dược có thể dùng quanh năm. Các dược liệu
khác dùng chung và các điều chế như sau:
- Phục linh 4 phân
- Sương bồ 4 phân
- Sơn cu di 4 phân
- Quát tử cân 4 phân
- Thố hệ tử 4 phân
- Ngưu thằng 4 phân
- Thức thạch chi 4 phân
- Can địa hoàng 7 phân
- Tế tân 4 phân
- Phòng phong 4 phân
- Xu dự 4 phân
- Thục đoạn 4 phân
- Sà sàng tử 4 phân
- Bát thực 4 phân
- Tam thiên kỵ 4 phân
- Thiên hùng 4 phân
- Thạch đẩu 4 phân
- Đổ trọng 4 phân
- Tùng dung 4 phân
Các dược liệu nói trên
đem tán chung thành bột, thêm vào mật ong, trộn đều, vo lại thành viên
bằng ngón tay, dùng ngày ba lần, mỗi lần 3 viên.
Có thể không cần trộn
với mật ong, để bột như vậy dùng như thuốc tán, mỗi lần dùng một
muổng canh, dùng liên tiếp 7 ngày thì sẽ có hiệu quả, 10 ngày thì sẽ
hết bệnh, 39 ngày thì sẽ trở lại bình thường. Nếu dùng thường trực
thì sẽ được cải lão hoàn đồng, thân thể khoẻ mạnh. Trong thời gian
dùng thuốc này, cử thịt heo, thịt dê, cử không được uống nước lạnh
(uống trà nóng thì tốt).
3.
Kinh Dịch có nói: “Các
hiện tượng của trời đất là điềm triệu của cát hung, tốt xấu, bởi
vậy người đời căn cứ trên thiên nhiên mà đoán được chuyện sắp xẩy ra.
Những điều cấm kỵ nói trên điều căn cứ trên triết lý lấy thiên địa
nhân làm gốc.”
- Điều cấm một là vì các ngày tháng này
tương ngày âm thần.
- Điều cấm hai là vì các ngày giờ này
là tương đương thiên kỵ. Điều cấm này cũng hấy nhắc đến trong sách Lễ
Ký. Sách Lễ Ký chép rằng khi trời nổi cơn mưa gió sấm xét thì không
nên thụ thai vì đó là lúc thiên nhiên đang cường nộ, người giao hợp dễ
bị phong đơn. Lấy cái nhìn tân tiến mà xét, thì có sấm xét thì trong
lòng ta không yên, việc phòng sự không còn hứng thú
nữa.
- Điều cấm thứ ba thuộc về nhân kỵ: Ăn no
sẽ ảnh hưởng đến tì (bao tử), hỉ nộ, bi, thương sẽ bị ảnh hưởng đến
nội trạng. Y học ngày nay cũng có bàn luận xa gần đến vấn đề này
khi khảo về sự tương quan giữa âm và thân (thân tâm y
học).
Ngoài ra còn có địa kỵ mà người dân
tương truyền cùng nhau là cơ bản văn hoá Á Đông, đó là không được giao
hợp trong đền chùa, thần mếu, phật pháp, đáy giếng chỗ nhà bếp, nơi
cầu, chổ mồ mà, cạnh quan tài. Các điều cấm kỵ này đưa ra là để ta
an tâm rằng, mình không có làm gì bậy thì như cuộc vui mới đạt được
tuyệt đỉnh của nó.
- Điều cấm kỵ thứ tư là không được giao
hợp khi mới tiểu xong mới nghe qua thì có vẻ vô lý nhưng người Trung
Hoa ngày xưa đã có căn cứ tin tưởng điều này. Sách “Ngọc phòng bí
quyết” có đoạn nói rằng sau khi tiểu xong thì tinh khí hao hụt,
các mạch đạo không thông, trong tình trạng như vậy mà giao hợp thì
đương nhiên bị tổn thương nội trạng. Nếu giao hợp thụ thai được người
mẹ sẽ bị tổn thọ.
Tất cả
7 điều cấm kỵ trên thì người xưa đều có lý do của họ, ta thấy rằng
không hữu lý vì ta nhìn dưới cặp mắt của người tân thời, không để ý
trên khía cạnh âm dương, mạch… của y lý xưa. Nhưng không phải vì vậy mà
ta khinh thường rồi cứ ngang nhiên bước vào những điều cấm
kỵ.
4.
Xét cuộc nói chuyện
trên của Hoàng Đế và Cao Dương Phụ ta nghe nhắc đến ngủ lao, lục cực
và thất thương, nhưng phần trên chỉ mơí nói đến thất thương mà thôi,
các thứ khác không thấy nhắc đến. Độc rải rác đó đây thì thấy Tố
Nữ kinh có nhắc đến các bệnh về bộ máy sinh dục khiến ta có nghĩ
rằng ngủ lao, lục cực là nói về bệnh sinh lý. Chẳng hạn như bệnh
niếu đạo viêm (sưng đường tiểu). Về bệnh này Đông y có đưa ra phép
chửa như sau:
- Uống thật nhiều nước
- Cử ăn các loại sinh
vật
Cách này xét ra đã có
kết quả.
5.
Tây y nghiên cứu nơi tật
bệnh mà cho toa, ít chú trọng đến nguyên nhân xa cho nên lắm khi bệnh
hết mà hại các cơ quan khác, tiếng y khoa gọi là phản ứng phụ. Đông y
trái lại tuỳ theo tính chất của bệnh và sự quân bình mạch, nhiệt
của bệnh nhân mà gia giảm thuốc cho nên tuỳ người mà có thang thuốc
riêng, bởi vậy dùng đông y nên cẩn thận, không nên thấy người nọ người
kia uống thang thuốc này thang thuốc nọ hết bệnh mà cứ lấy toa mà cứ
lấy thang thuốc riêng của họ bổ cho mình.
6.
Thời tiết trong năm đối
vơí Đông y cũng quan trọng. Sách còn nghi lại câu chuyện của Cao Dương
Trụ đáp Hoàng Đế trong đó nàng nói mỗi mùa thì dùng những thứ
thuốc khác nhau, thuốc mùa thu khác với với thuốc mùa hạ, thuốc mùa
hạ khác với thuốc mùa Đông…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét